1. Thông báo sự thay đổi của VIỆT GUITAR – HỢP ÂM HAY
    XIN CẢM ƠN!
    QT WEBSITE
    VŨ HÀ
    Dismiss Notice

Lịch sử cây đàn guitar!

Thảo luận trong 'Giải đáp chung về guitar' bắt đầu bởi winter, 20 Tháng ba 2004.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. winter

    winter Thread Starter bài nào cũng táng

    Đây chỉ là một chut thông tin tôi góp nhặt được, hy vọng mọi người sẽ thích. Không như nhiều nhạc cụ khác mà nhiều người lầm tưởng, đàn guitar không có họ hàng vói các loại nhạc cụ tân kỳ, bản thân nó lại có nguồn gốc rất xa xưa. Cùng với các nhạc cụ đàn dây khác, guitar có lẽ khởi đầu từ cây cung của những người thợ săn cổ. Tiếng bựt của dây cung hình như đã khai sinh cho nhưng chiếc đàn thô sơ nhất, có lẽ là đàn lia, đàn hạc, đàn luýt. Chúng được làm bằng gỗ hoặc mai rùa và gân động vật. Vào thế kỷ thứ 17 ở Hi Lạp đã thấy phổ biến đàn lia và đàn cithara( một laoij đàn lớn cồng kềnh,bắt chước cơ cấu của đàn lia với mặt gỗ to bản). Đồng thời từ "Guitar" ra đời bắt nguồn từ chữ " Cithara". Thế hệ đầu tiên của đàn guitar dường như có nguồn gốc từ Ai Cập và Babylonia từ 1000 năm trước công nguyên. Tuy nhiên, nhạc cụ này đã không xuất hiện o Châu Âu trong suốt một thời gian dài cho đến thế kỷ 8 sau công nguyên, khi mà nhưng nhạc cụ lưu động suất hiện khắp Châu Âu. Cùng thế kỷ đó, những đạo quân xâm lược đã đem theo loại đàn Rebec ( Đàn violon 3 dây thời cổ) có bầu tròn đến Tây Ban Nha, loại đàn này nhanh chóng phổ biến và trình diễn la liệt khắp nơi, đặc biệt là ở nhưng người hát rong đén nổi giáo hội Tây Ban Nha đã cấm chỉ các nhà thờ chơi loại nhạc cụ này bởi tính phóng khoáng xô bồ cua nó, thời kỳ này đã có nhiều nhạc sỹ đã viêt nhiều bản nhạc cho loại nhạc cụ này. Đến thế kỷ 17 đàn "Guittara" đã xuất hiện và chiếm lĩnh ngôi vị này ở Tây Ban Nha. Không ai biết chính xác đàn guitar xuất hiện từ tháng năm nào. Tuy nhiên trong suốt thế kỷ14 có hai loại nhạc cụ mang cái tên "Guittara" đó là đàn Guittara Latina và Guittara Moisca....
     
  2. dưa hấu

    dưa hấu "Khai Cuốc Kông Thần"

    Tóm tắt lịch sử cây đàn guitar ( copy từ bản dịch của GXR trong box Dịch thuật) Lịch sử sơ khởi về cây đàn guitar rất mơ hồ . Và bởi không bao giờ có giới hạn cho trí tưởng tượng cùng sự lãng mạn nên tồn tại cùng lúc rất nhiều giả thuyết khác nhau . Thậm chí còn có truyền thuyết về một chiếc mai rùa còn dính những sợi gân đã khô cứng được một vị thần Ai Cập tìm thấy trên bờ biển . Những ngón tay thần linh chạm vào những sợi gân rùa . Âm nhạc thần thánh tuôn trào trên nhạc cụ bộ dây đầu tiên ... Nhạc cụ bộ dây cổ nhất được tìm thấy tại khu vực Alaja Huyuk ( thuộc bán đảo Anatolie ) có niên đại 1400 trước Công nguyên . Một pho tượng đá niên đại 400 trước Công nguyên tìm thấy ở Athen ( Hy Lạp ) mô tả hình ảnh một người phụ nữ kiều diễm ôm trong tay một cây đàn . Điều đáng chú ý là tư thế pho tượng rất trùng khớp với tư thế các guitarist ngày nay . Cây đàn guitar - tất nhiên vẫn trong hình dáng của các thế hệ đàn dây trước đó - di chuyển dần tới Tây Ban Nha , nơi nó tìm thấy quê hương đích thực . Vào khoảng thế kỷ thứ 12 xuất hiện những " Chitarras Latinas " đầu tiên . Khoảng thế kỷ thứ 15 Vihuela là nhạc cụ đầu tiên mang đầy đủ những đặc trưng của cây đàn guitar . Mặc dù chỉ còn rất ít tiêu bản đàn Vihuela được lưu giữ đến ngày nay nhưng những bản nhạc soạn cho đàn Vihuela đều có thể được chơi trên cây guitar . Độ hoàn thiện của những bản nhạc này cho thấy các nhạc công Vihuela thực sự là những nghệ sĩ lớn . Những cây đàn guitar đầu tiên được làm tại Ý mang những đặc trưng cơ bản nhất cho một cây guitar với hộp đàn hình số 8 ( ngày nay hộp đàn có xu hướng ngắn hơn ) , 1 lỗ thoát âm duy nhất , 1 cần đàn và các khóa . Cây đàn guitar thời đó thường có 4 dây đôi ( dây kép như Măng - đô - lin ) và 1 dây đơn . Nghệ nhân chuyên làm vĩ cầm Stradivari cũng chế tạo những nhạc cụ như vậy . Nửa cuối thế kỷ thứ 19 những cây đàn guitar hoàn hảo nhất đã ra đời dưới bàn tay tài hoa của nghệ nhân bậc thầy Antonio de Torres ( 1817 - 1892 ; sinh trưởng tại San Sebastian de Almeria ) . Chỉ riêng với vẻ bề ngoài đơn giản mà vô cùng thanh thoát cây đàn của Torres đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tuyệt vời nhất . Torres mang lại cho cây guitar tỉ lệ cân xứng mà chúng ta đều biết . Phía bên trong thùng đàn , Torres thiết kế 1 hệ thống 7 thanh gỗ hình dẻ quạt thay cho 4 hoặc 5 thanh ngang truyền thống . Ông phân chia chúng theo một tỉ lệ chuẩn tới mức tất cả những thử nghiệm về sau này nhằm cải thiện tỉ lệ cũng như kiểu dáng cây guitar đều không thể vượt qua . Torres cũng là người tìm ra độ dài lý tưởng cho các dây đàn : 65 cm . Tất cả những phát kiến này đều gần như hoàn toàn dựa vào trực cảm trong quá trình mày mò tự học , tự làm . Những cây đàn guitar của Torres được biết đến trước hết bởi chất lượng âm thanh tuyệt vời , mượt mà mà vẫn đầy sức mạnh , cùng với tiếng ngân rất êm và sâu . Nhiều thợ làm đàn hiện đại trong suốt một thời gian dài đã thử nghiệm để chế tạo những cây đàn lớn hơn . Họ mở rộng các tỉ lệ , tăng chiều dài dây đàn lên tới 68 cm ... với mục đích nâng cao cường độ âm thanh của tiếng đàn . Nhưng kết quả lại trái ngược với mong muốn : những cây đàn như vậy quả thật có tiếng lớn hơn , với điều kiện người nghe ngồi thật gần người biểu diễn . Còn trong một phòng hòa nhạc lớn thì độ ngân của chúng không đủ lực để âm thanh tới được với những thính giả ngồi trong các góc xa , vốn là điểm ưu việt trên cây đàn của Torres . Nói đến những nghệ nhân làm đàn guitar cổ điển nghĩa là nói đến hai tên tuổi Manuel Ramirez ( 1869 - 1920 ) và Herman Hause ( 1882 - 1952 ; người Đức ) , được xem là hai người kế nghiệp lừng lẫy của Torres . Nhưng sau khi Torres mất , Jose - Luis Romanillos mới chính là người học trò cần mẫn và tận tâm nhất của ông . Romanillos viết sách về tiểu sử của Torres , nghiên cứu cặn kẽ lại toàn bộ trước tác của thầy mình . NGhệ nhân làm đàn nổi tiếng ( cũng tự học ) người Thụy Sĩ Werner Schär là một trong những học trò của Romanillos . Những cây đàn do Schär chế tác có thể xem là những cây đàn duy nhất thậm chí đạt tới độ hoàn hảo hơn cả những cây đàn của Torres trong cả vẻ đẹp thẩm mĩ lẫn chất lượng âm thanh . Trong lịch sử âm nhạc , một trong những giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của cây đàn guitar ở vào thời kỳ vua Ludwig XIV . Mọi tầng lớp trong xã hội , từ các bậc vương giả ( bản thân nhà vua cũng là một nghệ sĩ vô cùng tài hoa ) , cho tới những cô thôn nữ đều say mê guitar . Tuy nhiên cũng chính sự phổ cập này đã mang lại " tai họa " . Những bậc mệnh phụ cung đình không chịu được ý nghĩ rằng họ đang thưởng thức chung một thứ âm nhạc , chơi chung một thứ nhạc cụ với những kẻ hầu người hạ . Vậy là từ những nguyên xã hội cây đàn 6 dây rơi vào sự thất sủng . Suốt một thời kì dài những giai điệu guitar lôi cuốn kì diệu hoàn toàn vắng bóng trong chốn cung đình . Nhưng cây đàn guitar không biến mất . Những người nông dân hiền lành , những người du mục lang thang vẫn thủy chung với nó . Trong cộng đồng nghèo ấy người ta vẫn chơi nhạc và nhảy múa , vẫn uống rượu và yêu đương , vẫn hội hè đình đám , không ngừng nghỉ , với cây đàn guitar . Với cảm hứng nghệ thuật từ cuộc sống bình dân , họa sĩ Cavaggio đã sáng lập ra một trường phái nghệ thuật pha trộn giữa tĩnh vật và phồn thực , với những bức tranh tiêu biểu mô tả hình ảnh những cô nàng hầu gái rực rỡ và những anh chàng nông phu vâm vạp đang vui sướng reo hò nhảy nhót thường là xung quanh một cái bàn bị lật nghiêng với trái cây chín mọng , với rượu chảy thành vòi và những tay guitarist đang chơi đàn như điên dại ...Sau đó cây đàn guitar bắt đầu thời kì chiếm lại đỉnh cao . Những tên tuổi như Fernando Carulli ( 1770 - 1841 ) , Fernando Sor ( 1778 - 1839 ) , Mauro Giuliani ( 1781 - 1829 ) hay Matteo Carcassi ( 1792 - 1853 ) , với những trước tác đã trở nên kinh điển , đã đưa guitar trở lại góp mặt trong các salon quý tộc . Nhưng tới cuối thế kỉ XIX , guitar lại một lần nữa nhường ngôi vị độc tôn trong âm nhạc cao cấp . Thế vào vị trí đó là cây đàn piano . Như đã nhắc đến , Torres là một nghệ nhân " thượng thừa " trong lĩnh vực làm đàn guitar . Sử dụng một cây đàn của Torres , guitarist vĩ đại nhất mọi thời đại Fransisco Tarrega ( 1852 - 1909 ) đã phát triển kỹ thuật guitar hiện đại . Ông là nghệ sĩ chỉ chơi guitar và là nhà soạn nhạc chỉ sáng tác cho guitar . Những tác phẩm của ông tận dụng mọi đặc tính và khả năng của cây đàn cũng như " bắt " nghệ sĩ biểu diễn thể hiện tất cả tài năng của anh ta . Mặc dù những tác phẩm của Tarrega luôn mang tính mô phạm nhưng với độ biểu cảm , sự tinh tế và cùng tính lãng mạn chúng không còn là những bài tập kĩ thuật đơn thuần mà đã thưc sự trở thành những báu vật âm nhạc . Tarrega làm việc không ngừng nghỉ để trả lại cho cây đàn guitar vị trí của nó trong giàn nhạc giao hưởng . Vì mục đích này , bên cạnh việc soạn các tác phẩm mới , ông còn chuyển soạn cho cây đàn guitar rất nhiều những tác phẩm của Chopin , Schumann , Bach ... Những kỹ thuật của Tarrega được truyền lại tới ngày nay nhờ vào học trò của ông , Miguel Llobet ( 1878 - 1937 ) . Nhà soạn nhạc Brasil Heitor Villa - Lobos ( 1887- 1959 ) được xem là người kế tục và phát triển sự nghiệp âm nhạc guitar cổ điển của Tarrega . Mặc cho những biến thiên của lòng yêu mến chốn cung đình , cây đàn guitar vẫn luôn chiếm một vị trí xứng đáng trong lòng quần chúng lao động . Tại Tây Ban Nha guitar trở thành nhạc cụ được tôn vinh duy nhất trong dòng nhạc Flamenco với thứ âm nhạc ẩn chứa nỗi lòng thương nhớ quê hương , nỗi luyến tiếc quá khứ của những người tộc Mô- rơ . Biết bao thế hệ nghệ sĩ Flamenco đã nói tiếp nhau giữ gìn và mở rộng dòng nhạc này . Nhưng họ kế nghiệp nhau chủ yếu bằng cách học truyền khẩu nên tên tuổi và âm nhạc của họ cũng chỉ được " truyền khẩu " trong dân gian . Chỉ có duy nhất Ramon Montoya ( 1880 - 1942 ) đã đưa được Flamenco tới các phòng hòa nhạc, ví dụ như các buổi biểu diễn Flamenco tại Salle Pleyel, nơi được biết đến như một thánh địa của chỉ các buổi biểu diễn nhạc cổ điển . Bí quyết thành công của Ramon Montoya nằm ở sự hòa hợp được chất nhạc Flamenco thuần khiết với kỹ thuật guitar cổ điển . Tuổi thơ Andres Segovia ( 1893 - 1987 ) được ru trong tiếng đàn guitar. Khi lớn lên , Segovia tiếp tục con đường mà Tarrega đã bắt đầu , cùng với cây lục huyền cầm lần lượt chinh phục tất cả các phòng hòa nhạc . Cũng cần nhấn mạnh rằng vị sứ giả nổi tiếng của cây đàn guitar này đã thành công cũng chỉ với sự tự học .Sau Segovia bắt đầu xuất hiện 1 loạt các tay guitarist trẻ mà guitarist người Ý Emanuele Segre là đại diện xuất sắc cho " thế hệ mới " - thế hệ những gutarist hiện đại . Song song với sự phát triển của dòng guitar cổ điển chính thống còn tồn tại một chi nhánh guitar được phổ biến trong giới bình dân và 1 lần nữa dẫn tới sự lan tỏa mạnh mẽ của guitar ở thập kỉ 70 . Cây guitar gắn với phong trào Hippy thời này một mặt khiến guitar cổ điển bị thờ ơ , mặt khác , dưới sự ảnh hưởng của cuộc cách mạng điện khí hóa , lại đưa guitar trở thành nhạc cụ phổ thông nhất trong âm nhạc quần chúng . Một chi nhánh quan trọng trong đó là Jazz với guitarist huyền thoại Django Reinhard .
     
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Mới tập romance

    Truyền thuyết về cây đàn guitarNgày xưa có một cụ già và người con gái sống ở miền Nam Tây Ban Nha trong một ngôi nhà gỗ. Thời đó, cụ già nổi tiếng là một người thợ mộc giỏi, có người còn nói cụ là người thợ mộc tài danh nhất! Con gái của cụ tên là Citrạ Nàng có giọng hát tuyệt vời có một không haị Mỗi lần nàng cất tiếng hát, mọi người đều dừng lại lắng nghe, ngay cả chim trên cành cũng im hót để thưởng thức... Đâu chỉ có thế, giọng hát của Citra còn có năng lực chữa bệnh thần kỳ. Dân chúng khắp miền nam Tây Ban Nha thường tìm đến yêu cầu nàng hát mỗi khi có dịch bệnh phát sinh. Một đêm mưa bão, có người gõ cửa ngôi nhà gỗ của cha con nàng! Họ mở cửa. Đứng trước ngưỡng cửa là một bà già khốn khổ, áo quần tả tơi ướt đẫm. Bà già lạnh cóng, cơ hồ đứng không muốn nổi. Hai cha con vội vàng nhóm bếp lò và mang quần áo khô cho bà cụ, rồi cho bà uống sữa nóng với mật ong cho lại sức. Sáng hôm sau, khi bà cụ đã hồi sức, bà cho Citra biết cụ có một cô cháu nội đang ốm nặng sắp chết vì mắc phải một căn bệnh là kỳ khiến mọi lang y đều bó tay. "Đó là lý do một bà già như lão phải lặn lội cả tháng trời đến đây gặp cô, Citra ạ, chỉ để cầu xin cô cứu cháu nội tôi." Và bà lão ngồi hàng giờ kể cho Citra nghe về cô cháu. Càng nghe, Citra càng cảm thấy gần gũi, gắn bó với cô gái đáng thương chưa quen biết như thể đã thân thiết tự bao giờ. Hôm sau, nàng cáo từ cha già để theo bà lão đi cứu cô cháu bằng chính giọng hát của nàng. Người cha nhờ hai người bạn đi theo hỗ trợ và sau mấy tuần lễ họ đã đến một ngôi làng ở Asturias. Cô cháu của bà cụ đã ngất liệm, thoi thóp gần chết. Citra liền cất tiếng hát. Chưa bao giờ trong đời mình nàng hát hay đến như thế! Nàng hát mãi không thôi... cho đến ngày thứ ba thì cô gái mở mắt tỉnh dậy. Căn bệnh quái ác đã được cứu chữa! Nhưng trên đường về, một trận bão tuyết trên vùng núi lạnh đã chôn vùi Citra và hai người bạn già đồng hành. Khi bão đã tan, may sao một đoàn người bắt gặp Citra vùi sâu trong tuyết và lạnh cứng như chết. Họ đã cứu nàng và đưa về với người cha già. Citra thoát chết, nhưng vì thanh quản đã bị liệt vì tuyết lạnh, nàng không bao giờ còn cất tiếng hát được nữa. Thế là nàng trở nên u sầu, lúc nào cũng đắm chìm trong một trạng thái ưu uất đáng sợ... Nóng lòng muốn cứu con gái, người cha bỗng nhớ ra mình còn một súc gỗ hồng trong nhà kho chứa đồ làm mộc của mình. Thế là ngày ngày ông cụ hết chăm lo cho Citra lại "không nói tục"c đẽo trong nhà kho âm thầm làm một món quà cho con gái. Ông cưa gọt cả năm ròng và cuối cùng hoàn thành một thứ nhạc cụ lạ kỳ nhưng xinh đẹp mang hình dáng một người thiếu nữ. Sau đó ông nhờ những người thợ săn trong làng săn về cho ông hai con naị Một con lớn, ông lấy gân chân căng ra làm những sợi dây trầm; còn con tơ, ông ấy gân căng làm những dây bổng. Khi cây đàn hoàn tất, ông đứng trước cửa nhà vuốt ngón tay trên những sợi dây đàn gân thú. Một chuỗi âm thanh sâu lắng, quyến rũ ngân rung... Lần đầu tiên, từ khi bình phục, Citra bước ra ngưỡng cửa tìm xem những âm thanh thần tiên ấy phát ra từ đâu. Người cha trao cho nàng cây đàn độc đáo ấy. Citra nâng đàn lên và ắt đầu dạo nhạc. Tiếng đàn bay bổng... Dân chúng khắp miền nam Tây Ban Nha tìm đến xem chiếc đàn lạ lùng ấy. Mỗi lần nàng cất tiếng đàn, mọi người đều dừng lại lắng nghe, ngay cả chim trên cành cũng im hót để thưởng thức... Đâu chỉ có thế, tiếng đàn của Citra còn có năng lực chữa bệnh thần kỳ như tiếng hát của nàng ngày trước. Dân chúng thường tìm đến yêu cầu nàng đàn mỗi khi có dịch bệnh phát sinh.... Cái tên Citra dần lan truyền khắp thế giới và cây đàn đã được đặt theo tên nàng cũng được mô phỏng ở khắp nơi. Ở Ấn Độ, cây đàn của nàng được gọi là đàn Sitar (hay Chitar), ở Ý nhạc cụ này được gọi là Chitarra. Một số nơi khác, chữ “C” được đổi thành chữ “G” và thế là ngày nay ta có đàn Gitara ở Tây Ban Nha, đàn Guitare ở Pháp, đàn Guitar ở Anh-Mỹ, và đàn Ghi-ta ở Việt Nam.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này