1. Thông báo sự thay đổi của VIỆT GUITAR – HỢP ÂM HAY
    XIN CẢM ƠN!
    QT WEBSITE
    VŨ HÀ
    Dismiss Notice

Một chút kiến thức về âm nhạc

Discussion in 'Giải đáp chung về guitar' started by C-major, Jun 18, 2005.

Thread Status:
Not open for further replies.
  1. C-major

    C-major Thread Starter Mới tập romance

    Mối "thâm giao" giữa thanh nhạc và khí nhạc Với ưu thế riêng của mình, thanh nhạc và khí nhạc đều có vị trí riêng trong đời sống văn hóa - tinh thần của xã hội mà người trực tiếp “sử dụng”hai phương tiện trên là nhạc sỹ, ca sỹ và nhạc công. Tuy nhiên, nếu thật sự đi sâu tìm hiểu, ta sẽ dễ dàng thấy được những điểm khác biệt lớn.Về người sáng tác:Nếu muốn trở thành nhạc sỹ sáng tác ca khúc, bạn chỉ cần nắm vững nhạc lý, thông thạo về ký xướng âm, có nhạc cảm tốt và có lòng say mê với âm nhạc là đủ. Trong khi đó, muốn trở thành một nhạc sỹ sáng tác khí nhạc, ít nhất phải có quá trình theo học ở trường lớp là 4 năm trung học và 4 năm đại học ngành âm nhạc.Các nhạc sỹ sáng tác ca khúc có thể tự hào về “số lượng tác phẩm” và sự nổi tiếng của mình bao nhiêu thì trên thực tế, họ luôn “nể” và thầm “thán phục” các nhạc sỹ sáng tác khí nhạc bởi họ luôn biết rằng: Các nhạc sỹ khí nhạc cũng có thể sáng tác ca khúc, tự phối âm - phối khí cho tác phẩm của mình, trong khi họ chỉ có thể sáng tác ca khúc và đa phần phải nhờ người khác phối âm - phối khí cho ca khúc mà họ đã sáng tác. Về ca sỹ và nhạc công :Có thể nói, trong các thuật ngữ âm nhạc , các dòng nhạc luôn có một tên gọi về phong cách (style) mà nó mang tên, thí dụ như: classic (nhạc cổ điển), romantic (nhạc lãng mạn), jazz, pop, rock v...v... Ca sỹ và nhạc công thể hiện các dòng nhạc này cũng được phân biệt rất rõ ràng. Chỉ có ở Việt Nam mới có sự phân biệt “nhạc nặng là nhạc cổ điển, nhạc nhẹ là nhạc pop - rock”, hoặc “nhạc trẻ”được hiểu là “nhạc nhẹ”, còn “nhạc cổ điển” là “nhạc già”?! Tuy nhiên,có một điều không thể phủ nhận, đó là một ca sỹ hay một nhạc công của dòng nhạc cổ điển, nếu được đào tạo chính qui, trải qua một quá trình rèn luyện công phu cộng với lòng đam mê nghề nghiệp, có ý thức tự nâng cao trình độ và dễ thích nghi với mọi “môi trường âm nhạc”, họ có thể thực hiện tốt phong cách của các dòng nhạc khác. Trong khi đó, ca sỹ và nhạc công của các dòng nhạc kia có thể nổi tiếng trong lĩnh vực của mình nhưng lại “rất ngại” phải thực hiện một bài hát hay một bản nhạc của dòng nhạc cổ điển, bởi cách xử lý hơi thở khi hát và kỹ thuật biểu diễn của dòng nhạc này không phải “tay ngang”nào cũng có thể thực hiện được.Bàn về chuyện học của ca sỹ và nhạc công cũng có nhiều vấn đề đáng nói, bởi nếu là nhạc công của dòng nhạc cổ điển thì phải mất một thời gian đào tạo khá lâu qua trường lớp ( từ 9 đến 11 năm trung học dài hạn và thêm 4 năm đại học), còn ca sỹ của dòng nhạc này, nếu muốn “thành tài” để thật tự tin trong nghề nghịêp cũng phải qua 4 năm trung học và 4 năm đại học. Trong khi ca sỹ và nhạc công của các dòng nhạc kia thì thời gian đầu tư cho nghề nghiệp ít hơn, thậm chí khỏi phải qua trường lớp cũng có thể phút chốc thành “sao”như ở ta hiện nay!(?)Mối “kết giao”giữa thanh nhạc và khí nhạcĐã từ lâu, “đàn ca - hát xướng” luôn đi đôi với nhau trong sinh hoạt của cộng đồng. Sự kết hợp này không chỉ làm tăng hiệu lực của công tác tuyên truyền mà còn tạo thêm hiệu quả cho sự diễn cảm các tác phẩm âm nhạc.Hãy thử hình dung bằng hình tượng điện ảnh: “ Một đôi bạn trẻ yêu nhau, sau bao nhiêu xa cách, vượt qua bao thử thách mới tìm lại được nhau khi ...mái tóc đã điểm sương...Tay trong tay, mắt nhìn mắt rưng rưng, hình ảnh xung quanh xoay vòng..”.Sẽ không thể tạo cảm xúc cho người xem nếu lúc này hoàn toàn không có một giai điệu nhạc da diết nổi lên. Hoặc cứ để cho hai nhân vật tự do bộc lộ tình cảm bằng lời mà không có âm nhạc làm nền...Rõ ràng, hiệu quả nghệ thuật sẽ hơn hẳn nếu cũng trong cảnh diễn ấy, trên nền nhạc nổi lên một giọng hát du dương theo kiểu “vocalise”(nhạc hát không lời). Bạn đọc chắc hẳn chưa quên hình ảnh mở đầu và kết thúc của bộ phim Tây du ký với phần nhạc khá ấn tượng, và thử tưởng tượng, cũng những hình ảnh ấy mà không có phần âm nhạc và bài ca thì người xem sẽ cảm thấy buồn chán thế nào!? Thanh nhạc sẽ diễn tả hình ảnh, nội dung và diễn biến sự việc của một bộ phim, một vở kịch, nhạc kịch...khi mà khí nhạc không thể diễn tả hết. Ngược lại, khí nhạc sẽ thay thế thanh nhạc khi cần diễn tả nhưng tình huống “tế nhị” không thể thổ lộ bằng lời. Một khi người nhạc sỹ sáng tác biết kết hợp tinh tế giữa thanh nhạc và khí nhạc (hợp xướng và dàn nhạc giao hưởng) thì hiệu quả sẽ thật hoành tráng, trang trọng và đầy ấn tượng, điển hình như chương Final bản Giao hưởng số 9 của L.V.Beethoven, hay các chương trình Gala tại các Thế vận hội, Festival... trên thế giới.Đối với dòng “nhạc trẻ” hiện nay, thật khó mà chấp nhận khi trên sân khấu, ca sỹ và một dàn múa phụ họa cứ hát, cứ nhảy “loi choi”mà khán giả không hề nghe được phần nhạc đệm cúa ban nhạc; hoặc phần nhạc thì nổi lên chát chúa mà người hát cứ “gào” còn người nghe căng cả tai lẫn óc mà vẫn không hiểu ca sỹ đang hát gì...Tóm lại, mối “thâm giao”giữa thanh nhạc và khí nhạc từ lâu đã là một điều hiển nhiên! Đó là một mối quan hệ hỗ tương không thể tách rời và luôn tự hoàn thiện qua “bàn tay nhào nặn” của các nhạc sỹ sáng tác dù ở bất cứ dòng nhạc nào. Mối “thâm giao” ấy đang ngày càng phát triển và phong phú hơn cả về nội dung lẫn hình thức.Th.s. Hoàng Điệp
     
  2. C-major

    C-major Thread Starter Mới tập romance

    Thanh nhạc - đôi cánh của tiếng lòngNếu như trong văn học, phương tiện thể hiện của nó là chữ viết; hội họa có màu sắc và đường nét, sân khấu có ngôn ngữ và lời thoại v...v...thì âm nhạc cũng có những phương tiện thể hiện , đó là thanh nhạc (giọng hát) và khí nhạc (nhạc cụ).Cho tới nay, chưa có nhà lý luận âm nhạc nào khẳng định là thanh nhạc xuất hiện trước khí nhạc hay ngược lại, mà cũng có thể chúng xuất hiện cùng một lúc. So với khí nhạc, thanh nhạc có ưu thế về “tính phổ cập” hơn bởi nó được thể hiện bằng lời ca ,giúp cho người nghe dễ cảm nhận âm nhạc hơn bởi khả năng biểu đạt của ngôn ngữ. Đặc biệt, phương tiện này , bất cứ ai cũng có thể sử dụng được, bởi ai cũng có thể ca hát. Tiếng hát - lời ca cũng là một trong những phương tiện giao lưu giữa con người với con người, có thể giúp chúng ta bộc lộ, trao đổi tâm sự, giãi bày…Ca hát đã có từ lâu trong sinh hoạt của con người và qua quá trình tiến hóa, đã trở thành một loại hình nghệ thuật quan trọng. Đây là một “môn nghệ thuật điều tiết hơi thở” gồm các loại giọng chính như:- Giọng nữ cao: Soprano- Giọng nữ trung: Mezzo soprano- Giọng nam cao: Ténor- Gịong nam trung: Baryton- Giọng nam trầm: BassNgoài ra còn có các loại giọng mang âm sắc đặc biệt như: giọng nữ cực trầm –Contralto (mang âm sắc pha trộn giữa Alto và Ténor) và giọng nam cực trầm- Octavist(có âm vực trầm hơn giọng Bass).Trong thanh nhạc có nhiều quan niệm và nhiều trường phái khác nhau, tuy nhiên nổi bật nhất vẫn là các trường phái của Ý mà tiêu biểu là: bel canto – hát với kỹ thuật điêu luyện, mượt mà, bay bổng và trong sáng. Ở Việt Nam, từ những năm 30 (thế kỷ 20) đến nay, đã có hàng ngàn ca khúc hay, lắng đọng trong lòng người nghe. Những bài hát xuất sắc ấy thuộc nhiều loại phong cách sáng tác khác nhau, nội dung và chủ đề phong phú, đa dạng: trữ tình,lãng mạn, hùng tráng, thậm chí bi thương... nhưng xét về phương diện thanh nhạc thì những ca khúc ấy thường có âm vực, tầm cữ trung bình,khá thuận tiện cho các loại giọng hát. Từ sau 1975 đến nay, phần lớn ca khúc viết theo phong cách nhạc nhẹ nên tầm cữ trong các bài hát thường nằm ở âm khu giọng ngực của cả nam và nữ, không đòi hỏi nhiều về kỹ thuật hát, đây cũng là nguyên nhân khiến các bài hát này dễ phổ biến rộng rãi.Tóm lại, dù ở bất cứ thời điểm và hoàn cảnh nào, thanh nhạc luôn có một vị trí và vai trò quan trọng trong hoạt động văn hóa xã hội, đặc biệt là trong công tác tuyên truyền và cổ động, nó luôn có mặt “mọi lúc mọi nơi” trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta và là một “món ăn tinh thần” không thể thiếu.Th.s-Nh.tr. Hoàng Điệp
     
  3. C-major

    C-major Thread Starter Mới tập romance

    Giao hưởng - bản sonate cho dàn nhạcKể từ khoảng năm 1750, thuật ngữ “symphony[1]” (giao hưởng) được dùng với nghĩa “bản sonate dành cho cả dàn nhạc”. Trước đó, thuật ngữ này được dùng với nhiều nghĩa khác nhau. Symphony qua những giai đoạn lịch sử: “Symphony” có căn nguyên từ tiếng Hy-lạp với nghĩa là “một chồng âm”. Người Hy-lạp cổ dùng từ này để gọi việc kết hợp các âm thanh một cách dễ nghe với dàn đồng ca. Về sau, tuy nó được dùng nhiều cách khác nhau, nhưng thường nhất vẫn là để chỉ một loại khí nhạc. Một ngoại lệ là trong tác phẩm “Sacrae symphoniae” (Giao hưởng thánh) của G. Gabrieli[2] và H. Schütz[3] nó lại được dùng để chỉ thể loại âm nhạc dành cho nhạc cụ và cả giọng hát. Tên gọi symphony đã được áp dụng cho các chương khí nhạc của một vở oper, như vở “Orfeo” của Monteverdi[4], cho phần mở đầu của tổ khúc nhạc khí, như trong “Sonate da camera” của Rosenmüller[5], cho phần dạo đầu của một cantata, như trong bản Cantata số 156 của Bach (Ich steh’ mit einem Fuss im Grabe), cho tên gọi overture (phần mở màn) của thể loại opera Ý, thậm chí cho phần dạo đầu của một ca khúc, hay bất thường hơn, được Bach dùng để gọi tên các inventions (ứng tấu) 3 phần của mình.Giao hưởng hiện đại vẫn duy trì hình thức tác phẩm độc lập, dựa trên mẫu từ ouverture Ý từ 1730 đến 1750. Các nhà soạn nhạc thành Vienne như Georg Monn, Georg Wagenseil đã thêm một chương minuet (menuet) vào kiểu tác phẩm 3 chương của ouverture Ý. Như vậy, người ta thường gọi Joseph Haydn là “Cha của giao hưởng” (Father of symphony) nhưng như thế không có nghĩa là ông đã sáng tạo ra nó, mà chỉ vì Haydn đã có nhiều cải cách quan trọng và có công phát triển thể loại mạnh mẽ này qua 104 bản giao hưởng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Trong số 30 bản giao hưởng đầu tiên của mình, Haydn còn trung thành với cấu trúc hình thức 3 chương. Về một mặt nào đó, chúng nghe như thể loại “concerto grosso” của thời Baroque với Bach, Händel, Vivaldi. Từ sau năm 1765, cấu trúc 4 chương mới thực sự phổ biến, và lúc đó, giao hưởng mới thoát khỏi những yếu tố tương đồng với concerto grosso, overture, v.v… Từ các giao hưởng được viết sau năm 1780, đặc biệt trong 12 giao hưởng Salomon sáng tác cho thành phố London (nên còn gọi là giao hưởng London, số 93 đến 104), Haydn đã chịu ảnh hưởng nhiều về sự tinh tế và duyên dáng của Mozart, nhà soạn nhạc thế hệ sau ông. Không chỉ có Haydn mà cả J.C.Bach[6] và các nhà soạn nhạc trường phái Mannheim (Đức) cũng chịu ảnh hưởng nhiều bởi cách viết giao hưởng của Mozart. Đặc biệt, qua 3 giao hưởng sau cùng (trong số 41 giao hưởng, viết vào năm 1788) của mình, Mozart đã vượt xa Haydn và được tôn vinh bởi sự cân bằng âm sắc, diễn cảm và cách tạo cấu trúc cho giao hưởng.Trong số 9 giao hưởng của Beethoven, symphony No. 3 - “Eroica” là giao hưởng đầu tiên theo phong cách mới. Nó được xem như tiền thân của Lãng mạn,và đặc biệt symphony No. 9 có quan niệm lớn nhất về cấu trúc hình của symphony trước khi những giao hưởng đồ sộ của Mahler[7] xuất hiện. Ở giao hưởng số 3, “Eroica”, cấu trúc hình thức được mở rộng và tính biểu cảm được thể hiện sâu sắc hơn. Nhưng chính hình thức âm nhạc mới là điều mà Beethoven đã thực sự tách ra khỏi truyền thống giao hưởng. Chương cuối cùng của giao hưởng này lại được viết theo hình thức biến tấu[8] (thay vì sonate allegro). Sự cải cách này được Brahms giữ lại trong chương cuối của bản giao hưởng số 4 nổi tiếng của mình. Trong bản giao hưởng số 9 của Beethoven, lần đầu tiên giọng người qua hình thức hợp xướng được sử dụng như một nhạc khí trong một thể loại thuần túy dành cho khí nhạc. Wagner[9] đã coi sự kiện này như “số phận không thể tránh khỏi” của âm nhạc kịch tính dành cho nhạc khí, phá vỡ biên giới giữa khí nhạc và thanh nhạc. Hợp xướng tiếp tục được khai thác nhiều trước khi có các giao hưỡng Mahler. Trong symphony-cantata “Lobgesang” (Bài ca ngợi) của mình, Mendelssohn[10] thậm chí còn để cho tính chất cantata (hợp xướng) nổi trội hơn giao hưởng.Bản giao hưởng số 6 của Beethoven, “Pastorale”, mở đầu cho khuynh hướng sáng tác thể loại giao hưởng có chương trình (program symphony), có tiêu đề. Trong đó, Beethoven đã đặt tên cho 5 chương của mình. Đây cũng là lần đầu tiên có thể loại giao hưởng 5 chương. Sau này Berlioz[11] đã nối tiếp sáng kiến của Beethoven để viết “Symphonie fantastique” và giao hưởng bi kịch“Roméo et Juliette”. Hai tàc phẩm này được viết cho dàn nhạc và giọng hát nhưng lại theo một thể loại mới do Liszt[12] sáng tạo: thơ giao hưởng (Symphonic poem).Mặc dù còn có nhiều biến đổi nữa do nhiều tác giả làm phong phú thể loại giao hưởng, nhưng cho đến ngày nay, trong các giao hưởng hiện đại, người ta vẫn có khuynh hướng viết theo cấu trúc 3 hoặc 4 chương. Trong số rất ít nhà soạn nhạc thuộc dòng nhạc bác học của Việt Nam, có rất ít người viết thể loại giao hưởng. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tự hào với nhạc sĩ Nguyễn Văn Nam[13], tác giả của 8 giao hưởng, trong đó có một số giao hưởng đã được các dàn nhạc quốc tế dàn dựng (tại Nga, Mỹ).Cấu trúc thể loại giao hưởng cổ điển:Như đã nói ở trên, tuy có nhiều biến đổi, nhưng thể loại giao hưởng, symphony, vẫn cấu trúc cơ bản là của giao hưởng cổ điển. Cấu trúc đó gồm 4 chương như sau:phần Mở đầu: Có thể có hoặc không. Trong 12 giao hưởng London của Haydn luôn luôn có phần mở đầu trừ Symphony No. 95. Giữa phần mở đầu và chương I là cả một sự tương phản về điệu thức (âm thể) và về tiết tấu (thường mở đầu rất chậm).Chương I: Allegro. Chương này thường có tốc độ nhanh (Allegro) nên còn được gọi là chương Allegro. Hình thức chính của chương này là Sonate như chúng ta đã đề cập đến trong số báo trước. Ở đây có 2 chủ đề, thường gọi là chủ đề chính (principal theme – hay chủ đề 1) và chủ đề phu (subordinate theme hay chủ đề 2). Tư tưởng của tác phẩm luôn được thể hiện trong chương này. Đặc điểm của nó là tạo sự xung đột, căng thẳng giữa những ý nhạc tương phản của 2 chủ đề và nhiều hành động kịch tính phát triển mạnh mẽ, nhằm thể hiện một nội dung đấu tranh quyết liệt của tác phẩm.Chương II: Chương này thường có tốc độ chậm: Andante (Khoan thai) hoặc Adagio (rất chậm) với tính chất trữ tình (lyric) hoặc bi thương (pathétique), tiêu biểu cho hình tượng tương phản với những tình cảm suy nghĩ liên quan đến thế giới nội tâm củacon người, cũng có khi liên quan đến hình tượng thiên nhiên. Hình thức âm nhạc thường được dùng ở đây là biến tấu (variation), ba đoạn đơn, ba đoạn phức tạp hay sonate không có phần phát triển. Ngoài ra, các nhà soạn nhạc còn dùng thể loại có tốc độ chậm, gọi là hành khúc tang lễ (funeral march; marche funèbre).Chương III: Tốc độ nhanh. Trong âm nhạc thế kỷ XVIII, chương III thường mang tiết tấu múa của điệu nhảy Menuet. Nhưng ở các giao hưởng của Haydn, Menuet không còn mang tính qúy tộc, cung đình mà thay vào đó là không khí của các vũ khúc nông dân. Đến Beethoven, ông đã thay nó bằng chương mang tính Scherzo (hài hước), cũng ở nhịp 3 nhưng sinh động và hiện đại hơn. Gọi là scherzo vì tính chất âm nhạc ở đây thường vui tươi, nhí nhảnh hoặc mỉa mai, đôi khi lại mang tính triết lý. Có trường hợp chương III là một điệu Valse hay được xây dựng trên một tiết tấu mạnh mẽ của nhịp hành khúc. Chương này tạo sự tương phản về thể loại, gây yếu tố mới cho toàn bộ sự phát triển của tác phẩm. Nó vừa tạo tính tương phản với chương II vừa chuẩn bị cho chương kết (chương IV). Chương này thường được viết ở hình thức 3 đoạn phức tạp: A B A. Đoạn B còn được gọi là đoạn Trio. Sau đoạn A, có thể thêm phần Coda để có hình thức: A - B - A. Coda.Chương IV: Chương kết (Finale). Nhịp độ rất nhanh (Molto Allegro hay Presto). Nhiệm vụ của nó là tổng kết toàn bộ tác phẩm. Đặc biệt đối với giao hưởng cổ điển, chương này có chức năng đa dạng, phức tạp, thường thể hiện một thế giới quan trong sáng, yêu đời. Có khi chương kết này mô tả những cảnh sinh hoạt vui tươi của quần chúng hay cảnh lễ hội tưng bừng. Chương IV thường có quan hệ trực tiếp, gần gũi với chương I góp phần tạo nên tính thống nhất cho toàn bộ tác phẩm. Trong các giao hưởng cổ điển, đặc biệt của các nhà soạn nhạc trường phái Vienne (Haydn, Mozart, Beethoven), chương kết này thường ở hình thức Sonate Allegro. Ngoài ra có tác giả còn dùng hình thức Rondo Sonate với cấu trúc: A B – A C – Coda hay dùng thủ pháp phát triển theo kiểu biến tấu (variation) hoặc đa âm (polyphony).Beethoven là người đã có những cách tân quan trọng đối với thể loại giao hưởng, đưa nó lên đỉnh cao nghệ thuật âm nhạc của nhân loại. Ở chương II của các giao hưởng, ông còn dùng hình thức hành khúc tang lễ, thậm chí cả Scherzo (thay vì ở chương III). Ông đưa hợp xướng vào chương kết của symphony No. 9 tạo thành dấu ấn không phai mờ trong lịch sử âm nhạc thế giới. Ngoài ra, ông còn sáng tạo loại giao hưởng 5 chương có tiêu đề cho từng chương và đặc biệt là các chương được trình bày liên tục, không có sự ngừng nghỉ (ví dụ chương III và chương IV của symphony No. 5, chương III và IV, thậm chí cả giữa chương IV và V của symphony No. 6). Với các giao hưởng của mình Beethoven đã xác lập một thể loại nghệ thuật kịch giao hưởng.Tác dụng nghệ thuật của âm nhạc giao hưởng rất lớn, nó có khả năng diễn đạt nhiều vấn đề của cuộc sống, con người, xã hội. Nội dung nghệ thuật của giao hưởng đa dạng và phức tạp. Giao hưởng là một đỉnh cao của nghệ thuật âm nhạc. Qua từng thời kỳ lịch sử âm nhạc, các nhà soạn nhạc lớn đều chú ý đặc biệt đến thể loại này trong gia tài sáng tác của họ. -------------------------------------------------------------------------------[1] Symphonie (Pháp); Sinfonia (Ý), Sinfonie, Symhponie (Đức) [2] Giovanni Gabrieli (1555 - 1612), nhà soạn nhạc người Ý [3] Heinrich Schutz (1585 - 1672), nhà soạn nhạc người Đức [4] Claudio Giovanni Antonio (1567-1843), nhà soạn nhạc người Ý, tác giả của ít nhất 12 vở opera, nhưng chỉ còn lưu lại 3 vở đến ngày nay. [5] Johann Rosenmüller (1620-1684), nhà soạn nhạc người Đức. [6] Johann Christoph BACH, Con trai út của nhà soạn nhạc vĩ đại J.S. BACH [7] Gustav Mahler (1860-1911), nhà soạn nhạc Lãng mạn người Áo. [8] variation [9] Richard Wagner (1813 - 1883) nhà soạn nhạc, nhạc sĩ sáng tác opera lớn của Đức. [10] Felix Bartholdy-Mendelssohn (1809 - 1847), nhà soạn nhạc người Đức [11] Hector Berlioz (1803 - 1869), nhà soạn nhạc nổi tiếng người Pháp [12] Franz Liszt (1811 - 1886) nhà soạn nhạc nổi tiếng của Hungary. Vào cuối đời, 1865, ông chịu chức linh mục tại Roma. [13] Hội viên Hội Âm nhạc Liên-Xô, Hội Âm nhạc Việt Nam, giảng viên môn “Phối khí” và “Sáng tác” của Nhạc viện Tp. HCM, người đồng hương với nhạc sĩ Trần Văn Khê (Tiền Giang). Nguyễn Bách
     
  4. C-major

    C-major Thread Starter Mới tập romance

    Sonate - Những kiến thức cơ bản Theo các nhà nghiên cứu, lý luận âm nhạc, sonate “vừa là một hình thức âm nhạc (musical form), vừa là một thể loại (style)”. Một tác phẩm âm nhạc có thể mang cấu trúc của sonate, khi đó, người ta gọi tác phẩm đó mang “hình thức sonate”. Bên cạnh đó, sonate còn là một loại tác phẩm âm nhạc, tương tự như oratorio, opera, concerto, v.v…, khi đó người ta có “thể loại sonate” hay “liên khúc sonate”.Cấu trúc của hình thức sonate:Đây là cấu trúc bên trong của một chương trong bản sonate, concerto hay song tấu, tam tấu, v.v… Hình thức sonate trình bày, phát triển và tái hiện những chủ đề tương phản. Sự tương phản ở đây không phải chỉ về hình thức mà cả về nội dung. Hình thức sonate có khả năng diễn tả và phản ánh một cách sâu sắc nhất những suy tư và đời sống tình cảm của con người, cũng như những tư tưởng triết lý phức tạp. Trải qua các giai đoạn phát triển của lịch sử âm nhạc, hình thức sonate không ngừng được phát triển và hoàn thiện, đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhất là trong lĩnh vực giao hưởng và thính phòng. Bố cục của hình thức sonate: Hình thức sonate cổ điển gồm có ba phần chính: trình bày (exposition), phát triển (development), và tái hiện (recapitulation). Ngoài ra còn có phần mở đầu (introduction) như trong một số sáng tác của Mozart, Haydn, Beethoven, v.v… Đến Beethoven, hình thức sonate có thêm phần coda (ví dụ: chương I, bản sonate số 23 cho piano, giao hưởng số 3, giao hưởng số 5,…)Sơ đồ tổng quát của hình thức sonate cổ điển :APHẦN TRÌNH BÀY- Mở đầu ( chậm , có thể có hoặc không ).- Chủ đề một (allegro) - Đoạn nối.- Chủ đề hai.- Kết phần trình bày.BPHẦN PHÁT TRIỂN- Phát triển từ các nhân tố chủ đề của phần trình bày bằng nhiều thủ pháp như : chuyển điệu, thay đổi âm hình tiết tấu, phức điệu…- Có thể xuất hiện chủ đề mới. A’PHẦN TÁI HIỆN- Chủ đề một.- Đoạn nối.- Chủ đề hai.- Coda (có thể có hoặc không)(Bảng tóm tắt này được trích lại có hiệu chỉnh từ sách “Hình Thức âm nhạc” của Nguyễn Thị Vinh)1/ - Phần trình bày: Phần trình bày của hình thức sonate gồm có chủ đề một hay chủ đề chính (principal theme), đoạn nối (transition), chủ đề hai hay chủ đề phụ (subordinate theme), và kết phần trình bày. + Chủ đề một: Diễn tả hình tượng âm nhạc thứ nhất. Chủ đề một có nội dung tập trung, cấu trúc rõ ràng, điệu tính (âm thể) ổn định và thường là điệu tính chính. + Đoạn nối: Có chức năng dẫn dắt và liên kết giữa chủ đề một và chủ đề hai. Sự phát triển của đoạn nối trải qua ba giai đoạn : - Giai đoạn đầu: sự phát triển tương đối ổn định và không đột ngột, có sự nhắc lại một bộ phận của chủ đề một. - Giai đoạn chuyển điệu: bắt đầu thoát khỏi ảnh hưởng của chủ đề một. - Chuẩn bị cho chủ đề hai: đây là giai đoạn thứ ba của đoạn nối. Trong nhiều trường hợp, ở giai đoạn này chứa đựng âm trì tục (ostinato) trên âm át của điệu tính chủ đề hai. Tuy nhiên cũng có thể chứa đựng chất liệu chủ đề mới. + Chủ đề hai: Tương phản với hình tượng của chủ đề một, tạo sự cân bằng trong phần trình bày. Sự tương phản thể hiện ở tiết tấu, giọng (cung, âm thể), nhịp điệu, tốc độ. Chủ đề hai tạo ra yếu tố mới trong sự phát triển của phần trình bày, nhưng cũng đồng thời giữ được mối quan hệ sâu sắc với chủ đề chính. Về cấu trúc, chủ đề hai có thể được viết ở hình thức một đoạn, hai đoạn, hoặc ba đoạn đơn. Một trong những quy luật chính của hình thức sonate cổ điển là sự tương phản giữa hai chủ đề, dẫn đến việc xuất hiện điệu tính mới. Thông thường chủ đề hai kết hoàn toàn (perfect cadence) ở điệu tính mới. + Kết trình bày: Thực hiện chức năng khái quát, tóm tắt những đường nét điển hình trong toàn bộ phần trình bày. Kết trình bày cần thiết để gây ấn tượng, tạo sự cân bằng (Ví dụ: Sonate số 10 cho piano của Beethoven). Kết trình bày cũng có thể được xây dựng trên chất liệu chủ đề mới (ví dụ : Chương I – Sonate số 23 và số 31 của Beethoven). 2/- Phần phát triển: Đây là trung tâm mang nhiều kịch tính của hình thức sonate. Ở đây, âm nhạc được phát triển bằng nhiều thủ pháp như: chuyển điệu, thay đổi tiết tấu, v.v… Phổ biến nhất là thủ pháp “xé lẻ chất liệu chủ đề“ (fragmentation), tạo nhiều khả năng phát triển âm nhạc. Trong phần phát triển còn gặp cả hiện tượng thống nhất những yếu tố khác nhau của chất liệu chủ đề, nhắc lại mô phỏng các phần của chất liệu chủ đề hoặc biến tấu một phần nào đó trong các điệu tính khác nhau. Điển hình nhất của phần phát triển là sự phát triển liên tục, tránh sự ổn định về điệu tính cũng như về cấu trúc. Về hòa âm, quá trình chuyển điệu tích cực, sự chuyển điệu đến các điệu tính xa, sự xung đột điệu tính là phương pháp được dùng phổ biến trong phần phát triển của hình thức sonate. Ngoài ra, ở đây còn có thể xuất hiện chất liệu chủ đề mới được gọi là đoạn chen (épisode) (ví dụ : Chương I – Sonate số 5 cho piano của Beethoven). Trong các bản sonate thời baroque, phần phát triển của hình thức sonate không được các tác giả chú trọng nhiều, có khi nó xuất hiện rất nhanh và chỉ làm nhiệm vụ trung gian giữa phần trình bày và tái hiện. Đến Beethoven, phần phát triển được chú trọng và tăng cường hiệu quả, làm cho phần này trở thành một trong những đường nét điển hình nhất của hình thức sonate. 3/- Phần tái hiện: Nguyên tắc chính của phần tái hiện trong hình thức sonate là giảm bớt sự phát triển cũng như xung đột bằng cách nhắc lại hình tượng chính của phần trình bày ở điệu tính chính. Phần tái hiện thường có thứ tự chất liệu chủ đề như ở phần trình bày: chủ đề một - đoạn nối - chủ đề hai - kết phần trình bày. Yếu tố mới của phần tái hiện sonate là tái hiện lại chủ đề hai ở điệu tính chính. Trong phần tái hiện còn có thể xuất hiện những thay đổi về cấu trúc chất liệu chủ đề, làm phong phú thêm cho phần tái hiện. Về mặt hòa âm, phần tái hiện thường có khuynh hướng ngả về bậc hạ át (IV), hỗ trợ cho việc củng cố điệu tính chính. 4/- Phần coda: Do Beethoven sáng tạo ra. Nó bắt nguồn từ sự tổng hợp toàn bộ quá trình phát triển. Phần coda phản ánh những chi tiết của chất liệu chủ đề hoặc những yếu tố quan trọng và nổi bật nhất của phần phát triển. Thể loại liên khúc sonate cổ điển:Danh từ sonate xuất hiện ở Ý vào đầu thế kỷ 17, và chỉ có nghĩa đơn giản là một khúc khí nhạc nhỏ. Tuy cũng gồm nhiều chương với nhịp độ khác nhau, nhưng sonate ở thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18 cũng chỉ có tính chất gần với tổ khúc (suite) nhạc múa, và được gọi là sonate tiền cổ điển (sonate thời baroque). Domenico Scarlatti (Nhạc sĩ Ý, 1685 – 1757) đã có những đóng góp đáng kể trong việc hoàn thiện hình thức sonate. Ông viết tất cả 555 sonate. Trong đó ông bắt đầu sử dụng các kiểu chủ đề tương phản, làm cơ sở cho sự phát triển hình thức sonate sau này. Cho đến Philipp Emanuel Bach (1714 – 1788), con trai của J. S. Bach, hình thức sonate có thêm nhiều tiến bộ rõ rệt, thể hiện ở sự kết hợp tinh tế giữa chất trữ tình du dương và chất suy tư, kịch tính của ngôn ngữ âm nhạc. Những nhà soạn nhạc vĩ đại của trường phái cổ điển Vienne (Haydn, Mozart) cũng đã có những đóng góp quý báu cho thể loại này. Nhưng công lao to lớn nhất phải dành cho nhà soạn nhạc bậc thầy Beethoven, người đã hoàn chỉnh thể loại sonate một cách tuyệt vời, đưa hình thức này lên đỉnh cao nghệ thuật, thể hiện được một cách tài tình những tư tưởng lớn của thời đại và những diễn biến sâu sắc nhất của tâm hồn con người. Liên khúc sonate cổ điển là một tác phẩm gồm nhiều chương liên kết lại với nhau, trong đó mỗi chương mang tính độc lập tương đối. Ngoài ra, yếu tố cần thiết và quan trọng của thể loại liên khúc sonate cổ điển là: trong số các chương trong tác phẩm, nhất thiết phải có một chương (thường là chương I) được viết dưới hình thức sonate. Về bố cục, thể loại liên khúc sonate cổ điển thường gồm có ba hoặc bốn chương với tốc độ khác nhau: a. Chương I: Thường được viết ở hình thức sonate với nhịp độ nhanh, sôi nổi (nên thường được gọi là sonate allegro). Do biểu tượng và ý đồ nghệ thuật của hình thức sonate nên chương một nhằm giới thiệu tập trung nội dung của tác phẩm. Hai chủ đề phản ánh các mặt tương phản của cuộc sống, tư tưởng và tâm hồn con người. Do đó, có thể nói chương I đã thể hiện phần nào tư tưởng và quan điểm của tác giả. b. Chương II: Thường được viết ở nhịp độ chậm như: Andante, Adagio hay Largo. Chương II thường có giai điệu trữ tình như một ca khúc. Đôi khi, nó cũng mang tính chất suy tư hoặc bi thương (như trong Sonate số 12 của Beethoven, chương chậm là một hành khúc tang lễ – marche funèbre). c. Chương III: Các nhà soạn nhạc ở thế kỷ 18 (như Haydn, Mozart) thường chỉ viết sonate ba chương, riêng Beethoven đã sáng tạo ra sonate bốn chương. Trong thể loại sonate bốn chương này, Beethoven đã đặt giữa chương hai và chương cuối một chương có nhịp điệu Scherzo. Tính chất nhạc ở đây khi thì vui nhộn, khi thì hóm hỉnh, châm biếm, nó khác điệu Menuet ở chỗ không bị gò bó vào tiết tấu vũ khúc, mà có phong cách tự do và giàu sức diễn tả hơn . d. Chương kết: Thường có nhịp độ rất nhanh (vivace, presto). Nó có nhiệm vụ tổng kết các chương trên và nêu ra kết luận chung cho toàn bộ tác phẩm. Chương kết có thể được xây dựng trên cơ sở một điệu múa dân gian, khúc biến tấu (variation) của một chủ đề mang tính ca khúc, hoặc được viết theo hình thức Rondo. Từ thế kỷ 18 trở đi, do nhu cầu diễn đạt nội dung ngày càng sâu sắc và phong phú, nên chương kết cũng có thể được viết ở hình thức sonate. Trong trường hợp này, chương kết có vị trí quan trọng trong việc tổng kết vấn đề đã nêu ra trong tác phẩm, khẳng định một kết luận bằng những hình tượng âm nhạc tràn đầy kịch tính và sức diễn tả (ví dụ: chương kết trong bản sonate “Ánh trăng“ của Beethoven). Như vậy, chúng ta cần phân biệt đâu là hình thức (musical form) đâu là thể loại (musical style) khi nói về sonate. Có thể tóm tắt những điều phân tích trên đây bằng kết luận: Khi nói, “Bản sonate số 10”, đó là một thể loại âm nhạc như nhiều thể loại khác. Trong bản sonate đó, có ít nhất là một chương được viết ở hình thức sonate allegro, gọi tắt là sonate. Hình thức sonate allegro này không chỉ có trong thể loại sonate mà còn có trong nhiều thể loại khác như concerto, symphony, v.v…Nguyễn Bách
     
  5. C-major

    C-major Thread Starter Mới tập romance

    "Quãng 5 chó sói" trong âm nhạc Một quãng 8 được chia làm 12 bán cung bằng nhau được coi là hệ thống âm giai hoàn hảo của âm nhạc châu Âu. Với hệ thống này, nhạc công có thể chơi tất cả các bản nhạc thuộc những thể nhạc khác nhau, cũng như bất kỳ cung bậc nào theo yêu cầu của người hát. Việc phân chia quãng 8 thành 12 nốt nhạc là một phát minh lớn. Nhưng thật bất ngờ, phát minh này lại là của một nhà toán học Hy Lạp - Pitagor.Từ âm giai Pitagor...Pitagor đã lấy một sợi dây và căng để có được âm trầm nhất (thời đó). Ông cố định điểm giữa của dây lại, khi rung chiều dài một nửa sợi dây, nó cho ta một âm thanh cao hơn (âm thanh với chiều dài cả đoạn dây) một quãng 8. Ông tiếp tục thực hiện cho đến khi có được 7 quãng 8.Sau đó, Pitagor lại cố định dây ở vị trí chia ba, ông cho đoạn dây dài 2/3 rung lên và âm thanh phát ra cao hơn một quãng 5 so với âm thanh khi rung cả sợi dây. Ông cũng tiếp tục như vậy cho đến khi đạt được 12 quãng 5. Điều đáng nói là âm thanh của quãng 5 thứ 12 gần bằng với âm thanh của quãng 8 thứ 7. Như vậy 7 quãng 8 gần bằng với 12 quãng 5, đó là nền tảng mà Pitagor và những người kế tục ông dùng làm cơ sở để chia 7 khoảng cách trong một âm giai (một quãng 8) thành 12 cung bậc bán âm mà người ta gọi là âm giai Pitagor.... đến "quãng 5 chó sói" Âm giai Pitagor tồn tại trong lịch sử âm nhạc một thời gian khá dài, nhưng thực tế nó không đáp ứng được thẩm âm của giới nhạc sĩ. Chính từ sự chênh lệch cao độ trên cơ sở 12 quãng 5 và 7 quãng 8 đó mà việc lên dây đàn cho các quãng 5 không thật chính xác, tạo nên những âm bất hòa thanh khó chịu mà các giáo sĩ đạo Thiên Chúa gọi đó là những "quãng 5 chó sói".Một thời gian dài, các giáo sĩ Thiên Chúa giáo và một số nhạc sĩ đại phong cầm đã cố gắng khắc phục âm giai Pitagor bằng cách bổ sung thêm một số phím làm các bậc phụ, nhưng điều đó cũng không giải quyết được "quãng 5 chó sói" như đã nêu trên.Nhiều thế hệ nhạc sĩ và nhiều nhà bác học đã bỏ công sức nghiên cứu vấn đề này nhưng đều thất bại. Năm tháng vẫn song hành cùng "quãng 5 chó sói" khó chịu kia...Hệ thống "bình quân luật" - Âm giai ôn hòaCuối cùng nhạc sĩ đại phong cầm người Đức Andreas Wehrmeister (1623 - ?) cũng đã tìm được giải pháp khắc phục. Ý tưởng của ông cực kỳ đơn giản, dựa trên nguyên tắc cân bằng để 12 quãng 5 tương đương hoàn toàn với 7 quãng 8. Như vậy, khoảng cách cao độ tạo nên "quãng 5 chó sói" được phân bố trên số lượng nhiều cung bậc là một sự chênh lệch âm học quá nhỏ không đáng kể. Vì vậy việc lên dây đàn cho các quãng 5 đã loại bỏ được những sai lệch trước đó và các "quãng 5 chó sói" mất đi. Và người ta gọi âm giai của Andreas Wehrmeister là âm giai ôn hòa.Tuy nhiên, âm giai ôn hòa cũng gặp không ít người chống đối, cho rằng nó không được tự nhiên, âm thanh cứng, mất đi những tinh tế ... Lịch sử âm nhạc đã chứng kiến hai quan điểm của hai nhạc sĩ thiên tài người Đức cùng thế hệ, đó là Johann Sébastian Bach và Geoge Friedrich Händel (cùng sinh năm 1685). Händel kịch liệt chống âm giai ôn hòa còn Bach thì ủng hộ hết mình.Cũng chính vì để bảo vệ cho sự ưu việt của âm giai ôn hòa mà năm 1722, Bach đã viết tác phẩm Clavecin bien tempéré (Cây đàn clavecin rất ôn hòa). Đó là tác phẩm gồm 24 prélude và 24 fugue, nhưng giá trị của tác phẩm này ngoài việc chứng minh cho âm giai ôn hòa, nó còn là một tác phẩm đồ sộ, hoàn chỉnh nhất cho âm nhạc đàn phím, giàu hình tượng âm nhạc, giàu cảm xúc và là mẫu mực cho nghệ thuật phức điệu.Thực tế đã chứng minh quan điểm của Bach là đúng, bởi vì sau Bach là thời kỳ phát triển cực thịnh của âm nhạc thế giới với các nhạc sĩ thiên tài đã sử dụng âm giai ôn hòa để thể hiện các tác phẩm của mình như: W.A.Mozart, L.V.Beethoven, F.Schubert, F.Mendelssohn, R.Schumann, H.Berlioz...Hữu Trịnh
     
  6. C-major

    C-major Thread Starter Mới tập romance

    Opéra - những điều cần biết Từ “Opera” theo tiếng Ý có nghĩa là “tác phẩm” hoặc “công trình sáng tác”, nó là từ viết tắt của cụm từ “opera in musica” nghĩa là “tác phẩm âm nhạc”. “Opéra” hay còn gọi là “nhạc kịch” xuất hiện ở Ý vào khoảng thế kỷ 16 – 17. Có thể nói, đây là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, kết hợp giữa âm nhạc, thi ca, kịch, múa ballet và múa tính cách, ngoài ra còn có cảnh trí và trang phục phù hợp với nội dung của vở diễn.“Opéra” là một loại hình nghệ thuật có khả năng đề cập tới rất nhiều khía cạnh của cuộc sống và nhiều vấn đề mang tính hiện thực xã hội. Nó có thể có nội dung thần thoại, lịch sử và hiện thực...như một tác phẩm văn học. Từ khi ra đời cho đến nay, opéra đã có một vị trí quan trọng trong việc truyền bá rộng rãi nghệ thuật âm nhạc nói chung, góp phần cho việc thúc đẩy sự phát triển của các loại khí nhạc nói riêng.Ban đầu, opéra chỉ được trình diễn trong cung đình, phục vụ cho tầng lớp quí tộc châu Âu. Người đầu tiên có công trong việc đưa opéra đến với công chúng là nhạc sĩ Claudio Monteverdi với những vở opéra mang nội dung thần thoại như “Orfeo”(1607) và “Sự trở về của Ulysses”(1640). C.Monteverdi đã khai thác và sử dụng một cách phóng khoáng các khúc hát đơn (aria), hát nói (recitativo), hát đôi (duo), đồng ca...mở đầu cho sự hình thành một phong cách sáng tác mới của các nhạc sĩ sau ông.Opéra không chỉ hình thành và phát triển mạnh ở Ý với những tên tuổi quen thuộc: G.Verdi, G.Rossini, V.Bellini, G.Donizetti...mà còn phát triển mạnh ở các nước khác như: ở Đức với L.V.Beethoven, R. Strauss, J.Brahms...; ở Pháp với G.Bizet, Ch.Gounod; C.Debussy...; ở Áo với W.Mozart, F.Schubert, A.Buckner...; ở Nga với M.Glinka, P.I.Tchaikovski, M.Moussorgski, N.Rimsky-Korsakov, S.Rachmaninov, D.Shostakovitch, S.Prokofiev...;ở Việt Nam, vào những năm 60 của thế kỷ 20, nhạc sỹ Đỗ Nhuận đã sáng tác hai vở nhạc kịch mang tên “Cô Sao” và “ Người tạc tượng”, nhạc sỹ Nhật Lai với vở “Bên bờ sông Krôngpa”.Điểm tên những vở nhạc kịch nổi tiếng trên thế giới, chúng ta không thể bỏ qua tác phẩm “Aida” của nhạc sỹ người Ý G.Verdi với nội dung lịch sử mang nhiều kịch tính và có nhiều đoạn hoành tráng, không chỉ trong âm nhạc mà còn trong thủ pháp dàn dựng sân khấu. Khi nói tới những vở nhạc kịch nổi tiếng thế giới thì vở nhạc kịch “Carmen” của G.Bizet luôn được nhắc tới. Nội dung vở diễn dựa trên một tiểu thuyết của nhà văn Pháp P.Merime. Lần đầu tiên, hình tượng một cô gái Tsigan với những quan điểm phóng khoáng trong tình yêu được đưa lên sân khấu. Khi mới ra đời, vở nhạc kịch gần như là một “ scandal” lớn trong xã hội đương thời. Có thể nói, đây là một trong những vở nhạc kịch thành công toàn diện từ nội dung kịch bản đến đến âm nhạc, lôi cuốn người xem từ đầu tới cuối. Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu thưởng thức âm nhạc của công chúng cũng ngày một đa dạng và phong phú hơn, đòi hỏi nhạc sỹ phải sáng tác theo phong cách mới phù hợp với thời đại. Vở nhạc kịch “Notre Dame de Paris” của nhạc sỹ người Pháp gốc Ý R.Cocciante được viết dựa trên tiểu thuyết "Nhà thờ Đức Bà” của V.Hugo, với ngôn ngữ âm nhạc mới (pop music), đã đưa opéra đến với mọi tầng lớp công chúng. Điều thú vị trong phong cách sáng tác của ông là: mỗi bài hát đơn (aria), hát đôi( duo) và tam ca (trio)... đều có thể là một ca khúc độc lập với những giai điệu đẹp và dễ nhớ.Opéra ngày một phát triển không chỉ về nội dung mà cả về hình thức. Dường như nhạc sỹ A.Lloyd Webber đã kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ âm nhạc giao hưởng hiện đại với pop-rock trong các tác phẩm của mình như vở nhạc kịch “Cats – now and forever”. Ông đã dùng hình tượng loài mèo để phản ánh xã hội con người. Do yêu cầu của nội dung vở diễn, các diễn viên tham gia bắt buộc phải là những nghệ sỹ tài ba “hát hay và múa giỏi”. Ngoài ra, bạn đọc còn có thể làm quen với nhiều vở nhạc kịch hiện đại như: “Les Misérables” của các nhạc sỹ Boublil và Shonberg; vở “Jesus Christ - super star”; “The Fantom of the Opéra”; “ Miss Saigon”; “Oklahoma”...của các nhạc sỹ A.L.Webber, Tim Rice...Những vở nhạc kịch nêu ở trên và nhiều thể loại âm nhạc khác, bạn đọc có thể tìm mua DVD tại các cửa hàng băng đĩa nhạc ở Tp.HCM và Hà Nội.Th.s-Nh.tr. Hoàng Điệp
     
  7. C-major

    C-major Thread Starter Mới tập romance

    Graveur – người khắc hoạ những bức tranh bằng ký hiệu âm nhạc Xuất phát từ chữ “graver”, “graveur” trong tiếng Pháp có nghĩa là “thợ khắc, thợ chạm”. Từ lâu người Pháp dùng chữ “graveur” để chỉ những người làm công việc chép lại những bản nhạc từ bản thảo của các nhạc sĩ. Hiểu như thế để biết rằng việc chép nhạc không thuần túy là “sao chép” mà là “chạm”, “khắc”, có ý nhấn mạnh đến khía cạnh thẩm mỹ của công việc. Song ngày nay giới xuất bản âm nhạc ở Pháp và các nhạc sĩ hiện đại cuối thế kỷ 20 tuy vẫn gọi người làm công việc chép nhạc trên máy vi tính là “graveur” nhưng không xem họ như những người thợ mà coi họ như những người nghệ sĩ thực thụ. Chúng ta hãy thử tìm hiểu “graveur” ngày nay làm những gì để được “kính nể” như thế ?Từ những tổng phổ giao hưởng thông thường và công việc của một họa sĩ trình bày maquette...Tổng phổ giao hưởng thông thường ở đây không phải nói đến việc đánh giá nội dung nghệ thuật mà thuần túy chỉ nói đến những ký hiệu âm nhạc trong tác phẩm. Nghĩa là tác phẩm chỉ dùng những ký hiệu nốt nhạc cổ điển với những khuôn nhịp mẫu mực. Tuy vậy, việc chuyển một bản thảo trở thành một tổng phổ được thực hiện trên máy vi tính để thực sự dùng cho nhạc trưởng trong tập luyện và biểu diễn thì ngoài những kỹ năng sử dụng phần mềm còn đòi hỏi ngươiø thực hiện phải có một trình độ kiến thức nhất định về nhạc lý, hòa thanh, tính năng nhạc cụ, phối khí và cấu trúc của dàn nhạc giao hưởng. Nhạc trưởng và các nhạc công của dàn nhạc sẽ diễn tấu đúng như những gì đã được thể hiện trên bản tổng phổ. Vì vậy, việc thiếu hiểu biết của người chép nhạc về những vấn đề nêu trên có thể làm sai lệch nội dung tác phẩm.Ngoài ra, trên thực tế họ đã làm những công việc của một họa sĩ trình bày maquette. Bởi vì ngoài những chuẩn mực, những qui tắc âm nhạc họ còn phải biết cân đối để các ô nhịp có sự tương thích về độ dài biểu thị cho thời gian, đồng thời sắp xếp để các nốt nhạc đừng quá dày hoặc quá thưa trong một chừng mực có thể chấp nhận được… nhằm tạo nên một bản tổng phổ hài hòa, vừa chuẩn xác vừa đẹp mắt.Đến những tổng phổ giao hưởng hiện đại và công việc của một nghệ sĩTrước hết, chúng ta cần biết rằng sự phát triển của nhạc giao hưởng hiện đại cuối thế kỷ 20 đã kéo theo sự ra đời những tổng phổ phức tạp đầy “rối ren”, văn bản của tổng phổ đã vượt ra ngoài khuôn mẫu của ô nhịp, của những ký hiệu âm nhạc cổ điển. Giờ đây trên tổng phổ, xen lẫn giữa các nốt nhạc là những đồ thị, những nốt nhạc “dị dạng”, những ký hiệu ước lệ và có khi là những hình vẽ ngộ nghĩnh… Điều này đòi hỏi graveur phải xử dụng thành thạo chương trình chép nhạc và có nhiều sáng tạo hầu đáp ứng nhu cầu thực tế về cách thể hiện tác phẩm trên khía cạnh văn bản.Trước nay, tác phẩm âm nhạc dùng những ký hiệu thông thường nằm trong những khuôn nhịp cố định, những nốt nhạc trên văn bản tổng phổ được hiện hình cứng nhắc tựa như những viên sỏi được xếp đặt ngay ngắn trong từng ô vuông với những đường viền bao bọc mà người chép nhạc không thể đặt chúng ra ngoài ranh giới đó. Nói các khác, nếu ngày trước người chép nhạc vô hình trung bị trói buộc trong phạm vi của một người thợ thì ngày nay vấn đề đó lại trái ngược hoàn toàn.Với những đồ thị hình sin, cộng với chú thích của tác giả, graveur có thể thể hiện chúng như những dãy núi nhấp nhô in bóng bên bờ biển lặng sóng; những chuỗi nốt không có cọng nốt, không hạn chế bởi những vạch nhịp có thể được bố cục như những dấu chân rải dài dọc theo bờ cát thơ mộng; những nốt nhạc lẻ loi xuất hiện giữa những ký hiệu như “điện tâm đồ” có thể được thể hiện như những bông hoa cô độc giữa những bụi gai… Dĩ nhiên tất cả đều phải theo một lôgic để trung thành với ý tưởng của tác giả.Và nếu trước kia, chỉ huy dàn nhạc là người đầu tiên phải nghiên cứu kỹ lưỡng để nắm được nội dung tác phẩm trước khi dàn dựng, thì ngày nay graveur là người đầu tiên phải làm việc đó, họ phải hiểu tác phẩm để thể hiện một cách sáng tạo nhằm làm ra một bản tổng phổ rõ ràng, khoa học, trung thành với ý tưởng của tác giả nhưng mang tính nghệ thuật và thẩm mỹ cao để tạo cho người nhạc trưởng những hưng phấn, những cảm hứng nghệ thuật. Bức tranh tổng phổ rõ ràng, đẹp mắt sẽ giúp cho người nhạc trưởng dễ hình dung ra những “tuyến” của tác phẩm, một phần của những hình tượng âm nhạc, đồng thời dễ nhận ra sự sáng, tối, dày, mỏng của âm vang dàn nhạc…Graveur đã làm việc với tất cả kiến thức, óc sáng tạo đối với phần mềm ứng dụng, sự hiểu biết sâu rộng về âm nhạc, sự say mê và cảm hứng nghệ thuật của mình. Họ thật sự là những nghệ sĩ đã khắc họa nên những bức tranh mang tính nghệ thuật về phương diện tạo hình bằng những ký hiệu âm nhạc của quá khứ và đương đại.Ngày nay, các nhà xuất bản âm nhạc tại Pháp thường tổ chức thi lấy bằng Graveur để công nhận trình độ âm nhạc, kỹ thuật sử dụng phần mềm, năng lực thẩm mỹ của những người chép tổng phổ nhạc giao hưởng trên máy vi tính và đó cũng là tấm giấy thông hành chắc chắn để graveur có thể đến làm việc ở bất kỳ một nhà xuất bản âm nhạc nào.NGUYỄN HỮU TRỊNH
     
  8. quangthangs

    quangthangs Mới tập romance

    Bác Xê - Ma dơ ơi!BÁc có nhiều kiến thức về LS âm nhạc thế, hôm nào làm 1 chủ đề về các thuật ngữ Âm nhạc đi. VD như: lento, poco, crecst ... chẳng hạn, ở các bản nhạc thường có cái đó. Nó là ký hiệu hướng dẫn người chơi.
     
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Mới tập romance

    Một Số Từ & Thuật Ngữ Âm Nhạc -Sưu tầm-1. Từ Ngữ Âm Nhạc (Anh Ngữ)Accent - Dấu nhấn đặt trên một nốt Accidental - Dấu biến, hay dấu hoá (thăng, giảm, bình,vv) Alto clef Khóa Alto - , dùng cho viola, nằm trên hàng kẻ thứ 3 (nốt C) Bar Line - Vạch nhịp Bass clef Khoá Fa C clef Khóa ĐÔ (nếu ở giữa hàng kẻ1 gọi là "soprano clef"; nếu ở hàng kẻ 3 gọi là "alto clef"; ở giữa hàng kẻ 4 gọi là "tenor clef".) Chord Hợp âm, nhiều nốt chồng lên nhau. Chromatic Các nốt cách nhau lên xuống từng nửa cung. Chromatic Scale Âm giai gồm có 12 nửa cung. Classical Music Music vào thời kỳ 1770-1825 Clef Khóa nhạc (khóa Sol, Fa hay Đô) Common Time Nhịp 4/4 Composer Nhạc sĩ Conducting Điều khiển Conductor Ca Trưởng Cue Note Nốt viết nhỏ hơn bình thường dùng cho một mục đích đặc biệt nào đó như để đọc, để dạo... Cut time Nhịp 2/2 Double bar Vạch nhịp kép dùng khi chấm dứt một đoạn nhạc, hay một bài nhạc. Down beat Nhịp đánh xuống của người Ca trưởng, thưuờng là nhịp đầu tiên Duplet Liên 2, một nhóm gồm 2 nốt, mà gía trị của nó bằng 3 nốt giống hình (dùng trong nhịp kép) Dynamics Cường độ của nốt nhạc Grace Note (Nốt Láy) nốt nhạc được tấu thật nhanh trước một phách. Hymm (chorale) Bài hát Thánh ca. Introduction Khúc dạo đầu bản nhạc Key Signature Bộ khóa của bài hát Leading Tones Nốt thứ 7 trong âm giai (scale) Ledger Lines Những hàng kẻ phụ Lyric Lời của bản nhạc Major Chord Hợp âm trưởng Melody Một dòng nhạc Meter Nhịp Meter Signature Số nhịp Minor Chord Hợp âm thứ Modulation Sự chuyển hợp âm Natural Dấu bình Orchestra Dàn nhạc lớn, có string, brass, woodwing và percussion instruments Ornamentation Những nốt như dấu luyến, láy,vv... Percussion Family Bộ gõ: drums, rattles, bells, gongs, và xylophones Pitch Cao độ của âm thanh Plainsong Nhạc bình ca (Gregorian songs) nhạc không có nhiều bè, không có trường canh, không có nhạc đệm. Quarter Note Nốt đen Quarter Rest Dấu nghỉ đen Refrain Điệp khúc Rhythm Tiết tấu Scale Âm giai Sharp #, Dấu thăng Slur Dấu luyến, nối hai nốt khác cao độ Staff hàng kẻ nhạc String family hay viloin family, gồm có violin, viola, cello, và bass. String Instrument Family Những nhạc khí như Guitar, violin, violla, cello, bass Syncopation Đảo phách, nhấn trên phách yếu. Tenore Clef Khóa Đô nằm ở hàng kẻ thứ 4 Tie Dấu nối hai nốt cùng cao độ Time Signature Số nhịp của bài hát, để cho biết mỗi trường canh có mấy phách. Time Signature Số nhịp của bản nhạc Tone Một nốt Tonic Chủ âm trong âm giai (scale) Treble Cho những nốt cao. Treble clef Khóa Sol Triad một hợp âm gồm 3 nốt chồng lên nhau theo những quãng 3. Triplet Liên ba Unison Hai nốt giống nhau, cùng cao độ. Wind instrument family Những nhạc khí như kèn và sáo Woodwind family Những nhạc khí mà original làm bằng gỗ, như sáo (recorders, flutes, clarinets, saxophones, oboes, bassoons)
     
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Mới tập romance

    2. Những từ ngữ quốc tế thường gặp trong âm nhạc A piacere (giống như chữ "ad libitum"), diễn tả tự do A tempo Trở về nhịp vận cũ Acelerando, accel. Hát dần dần nhanh hơn Ad libitum, ad lib Cho phép người hát dùng tempo (nhịp vận) tùy ý (có hay không có nhạc đệm). Đồng nghĩa với chữ "A piacere" Adagio Chậm, chậm hơn andante, nhanh hơn largo Addolorado Diễn tả sự buồn sầu Affrettando Hát nhanh (hurry) lên Agilmente Hát một cách sống động Agitato Hát một cách truyền cảm (excitement) Al Coda Tới chỗ Coda (đoạn kết bài) Al Fine Tới chỗ kết Al segno Trở về chỗ dấu hiệu Dal segno (có dạng chữ S) Al, all’, alla, alle "tới, trở về" (to), thí dụ: al Fine (tới chỗ kết) Alla breve Cut time (nhịp 2/2) Allargando, allard Hát chậm dần lại nhưng to dần lên, thường xẩy ra lúc kết bài hát. Allegretto Chậm hơn Allegro Allegro Hát với nhịp vận nhanh, vui vẻ Alto Giọng thấp nhất của bên nữ (đôi lúc có thể dùng bè tenore một (cao) để hát cho bè này. Trong string family thì alto có nghĩa là đàn "viola". Ancora Lập lại Andante Hát với nhịp vận vừa phải (moderate) Animato Hát sống động Appassionato Hát một cách say sưa (impassioned) Arpeggio Rải Arpeggio Đánh đàn theo kiểu rải nốt. Baritone Giọng trung bình của bè nam (giữa tenore và basso). Hầu hết người Việt Nam chúng ta có giọng này. Bass Giọng thấp nhất của bè nam. Baton Cái đũa nhịp của Ca trưởng Bis Lập lại 2 lần (Encore!) Caesura Im bặt tiếng (dấu hiệu: //) Calmo, calmato Im lặng Cannon Hai bè đuổi nhau (counterpoint) mà bè sau lập lại giống như của bè trước. Canon Hai bè đuổi nhau (counterpoint) mà bè sau lập lại giống như của bè trước. Carol Bài hát mừng Chúa Giáng Sinh Coda Phần kết của bài hát, thường viết thêm vào để kết. Col, coll’, colla Có nghĩa là "với" Con Hát "với" Con brio Hát với tâm tình (spirit) Con calore Hát với sự ân cần, nhiệt tâm (warmth) Con intensita Hát với sự mạnh mẽ, kiên cường (intensity) Con moto Hát với sự chuyển động (motion) Con spirito Hát với tâm hồn Contra Tấu, hát một octave bên dưới bình thường Crecendo Hát dần dần to lên Da capo, D.C Trở về từ đầu Dal Có nghĩa là "từ chỗ..." Dal Seno, D.S Trở lại từ chỗ có dấu sdno (giống chữ S) Decrescendo Hát nhỏ, êm dần lại (đồng nghĩa với diminuendo) Delecato Một cách khéo léo (delicately) Diminished Giảm gần trường độ nốt. Diminunendo, dim Hát nhỏ, êm dần Dolce Hát một cách ngọt ngào (sweetly) Dolcissimo Hát một cách rất ngọt ngào. Dolosoro Hát một cách buồn sầu (sadly, mournfully) Duet Hai người hát Encore Lập lại hay chơi thêm ở cuối bài hát. Espressivo Hát một cách truyền cảm (expressively) Fermata Ký hiệu viết trên nốt nhạc (giống con mắt) dùng để ngân dài. Festivo, festoso Hát một cách vui vẻ (festive, merry) Finale Đọan cuối cùng Fine Hết Glissando vuốt (phím đàn) Gracia Vui vẻ Grave Chậm, buồn Interlude Khúc dạo để chuyển bè, chuyển đoạn Lacrimoso Hát một cách buồn sầu, khóc lóc (tearful, mournful) Lamento Hát một cách buồn sầu Langsam Hát chậm Largetto Hát chậm hơn largo Largo Hát rất chậm Legato Hát một cách êm ái và liên tục Leggiero Hát một cách nhẹ nhàng, vui vẻ Lento Hát một cách chậm chạp, nhưng nhanh hơn largo và chậm hơn adagio Liberamento Hát một cách tự do (freely) Medesimo Giống nhau (the same) Meno Ít hơn Meno mosso ít cử động hơn (less motion) Metronome Một dụng cụ để giữ nhịp. Nếu M.M. 60, nghĩa là mỗi hát 60 phách mỗi phút Mezzo Khoảng giữa, trung bình Mezzo Alto Giọng trung bình của bè nữ. Mezzo forte, mf Mạnh vừa Mezzo piano, mp Nhẹ vừa Misterioso Một cách thần bí (misteriously) Moderato Hát với tốc độ trung bình Morendo Dần dần hát nhẹ lại (dying away) Mosso Nhanh Octave hai nốt cùng tên, cách nhau một quãng 8 (hay 12 cái half steps) Ottava Một Octava Ottava alta (8va) 1 octave cao hơn Ottave bassa (8va, 8vb) 1 Octave thấp hơn Pacato Im lặng (calm, quiet) Pausa Nghỉ (a rest) Petite Nhỏ Peu a Peu Từng ít một Pianissimo, pp Rất êm Pianississimo, ppp Êm vô cùng Piano, p Êm Piu Nhiều hơn (more) Poco Một ít Poco ced., Cedere Chậm hơn một ít poco piu mosso Chuyển động nhiều hơn một chút Poi sau đó (then) Postlude Bài dạo sau lễ Prelude Bài dạo đầu lễ Prelude Nhạc dạo (chơi trước) Prestissimo Rất, rất nhanh Presto Rất nhanh Quasi Hầu hết (almost) Rallentando, rall Chậm dần lại, như chữ Ritardando Rapide Nhanh Rinforzando Dấu nhấn Ritardando, rit Chậm lại dần Ritenuto Giảng tốc độ ngay Rubato Nhịp lơi Sanft Nhẹ nhàng (soft, gentle) Sans Không có (without) Segno Dấu hồi đoạn (như chữ S) Semplice Đơn giản (simple) Sempre Luôn luôn, thí dụ: Sempre staccato Senza Không có (without) Sereno Bình thản (peaceful) Sforzando, sfz, sf Nhấn buông, nhấn mạnh trên nốt một cách bất ưng Simile Giống nhau Sinistra Trai trái (left hand) Sino Mãi tới khi (until) Smorzando Tắt lịm dần (fading away) Soave Ngọt ngào (sweet, mild) Sognando Một cách mơ màng (dreamily) Solo Hát một mình Soprano Giọng cao nhất của bè nữ. Sostenuto Kéo dài nốt Spiccato Hát tách rời (khác với legato) Stesso Giống nhau (same) Subito Một cách thình lình (suddenly) Sur Trên (on, over) Svelto Nhanh (quick, light) Tanto Nhiều Tempo Nhịp vận Tempo primo Trở về nhịp vận đầu Teneramente Nhẹ nhàng (tenderly) Tenore Giọng cao nhất của bè nam. Tenuto, ten Giữ nốt lâu hơn bình thường (nhưng không lâu bằng fermata) Tosto Nhanh (quick) Tranquillo Im lặng Tre 3 Trills Rung (hát thay đổi từ nốt chính lên một hay nửa cung một cách liên tục) Troppo Qúa nhiều Tutti Tất cả (all) Un Peu Một ít (a little) Un poco Một ít (a little) Una corda soft pedal Vibrato Rung Vivace Hát một cách hoạt bát, linh động Volti subito Giở trang thật nhanh Vrescendo Hát lớn dần lên (theo trang web chính thức của Nhóm Ca Trưởng)
     
  11. Befocused

    Befocused Mới tập romance

    Bài viết này quả là hay và rất thú vị.Để tăng thêm phần thú vị và dễ hiểu (bổ ích) cho anh em, mình thêm một số chi tiết cụ thể cho 1 số phần trong bài sưu tầm của C-major như sau.
    Nếu nói cao hơn 1 quãng 8 ở ngay đoạn này thì các bạn có thể chưa hiểu đươc cao hơn 1 quãng 8 là thế nào vì khái niệm quãng 8 chưa được nêu ra trước đó. Do vậy, các bác hiểu chỗ này theo âm học, có nghĩa là âm thanh sau cao gấp 2 âm thanh ban đầu. Ví dụ, nếu Pitagore để nguyên chiều dài và rung được 1 âm thanh có tầng số là 60Hz, thì lúc ông cố định điểm giữa và rung 1/2 sợi dây sẽ có được một âm thanh 120Hz.
    Quãng 5 cũng là quãng 5 âm học, tức là có cao độ bằng 3/2 (gấp rưỡi, 1.5) lần âm thanh ban đầu (để nguyên chiều dài sợi dây). Ví dụ, nếu Pitagore để nguyên chiều dài và rung được 1 âm thanh có tầng số là 60Hz, thì lúc ông cố định điểm 2/3 sợi dây và rung phần dài (2/3) sẽ có được một âm thanh 90Hz.
    Có 2 điều cần giải thích ở đọan này. 1. Tại sao lại chọn quãng 5 thứ 12 và quãng 8 thứ 7 để so sánh?2. Tại sao lại âm thanh ở 2 quãng đã chọn lại gần bằng chứ không phải là bằng? Đã là tóan học thì phải chính xác chứ!!! Lời giải thich như sau.1. Nếu lấy quãng 5 thứ 12 của 1 nốt hoặc lấy quãng 8 thứ 7 của nó thì ta lại được chính nốt ban đầu (dĩ nhiên có cao độ cao hơn nốt ban đầu). Ví dụ, nốt ban đầu là Đô . Quãng 5 đầu tiên của nó sẽ là Sol trưởng (G) và quãng 5 tiếp theo (tính từ G) sẽ là Rê trưởng (D) ... cứ thế lấy 12 lần ta sẽ được nốt Đô trở lại như dưới tóm tắt sau.C-G-D-A-E-B-F#-C#-G#-D#-A#-F-CCòn quảng 8 thứ 7 dĩ nhiên là nốt ban đầu bởi vì 1 quãng 8 của một nốt chính là nốt đó (Do-re-mi-fa-sol-la-si-Do) (nhưng có cao độ cao hơn 2 lần như đó nói trên).2. Gần bằng chứ không phải bằng bởi vì tính theo cao độ thì theo định nghĩa trên:- Quãng 8 = cao gấp 2 âm thanh ban đầu- Quãng 5 = cao gấp 3/2 âm thanh ban đầuNhư vậy, nếu nói "quãng 8 thứ 7" có nghĩa là lấy quãng 8 của âm thanh đầu tiên 7 lần; và nếu tính bằng cao độ thì "quãng 8 thứ 7" này cao hơn 2 lũy thừa 7 lần âm thanh ban đầu.Tương tự, "quãng 5 thứ 12" có nghĩa là có nghĩa là lấy quãng 5 của âm thanh đầu tiên 12 lần; và nếu tính bằng cao độ thì "quãng 5 thứ 12" này cao hơn 3/2 lũy thừa 12 lần âm thanh ban đầu.Mà 2 lũy thừa 7 = 128, còn 3/2 lũy thừa 12 = 129.7463379.Có nghĩa là nếu lấy quãng 8 của 1 nốt 7 lần hay lấy quãng 5 của nó 12 lần thì ta được lại chung 1 nốt, có tên như nốt ban đầu - nhưng cao độ không bằng nhau, mà chỉ là gần bằng nhau (128 vs. 129.7463379)!!! Thật là hết sức vô lý!!!! Không chịu nổi !!!!
    Nhưng cũng ...
    Tui chắc tui gọi là "quãng 5 chó má" quá chứ kh phải là chó sói nữa ... nếu không có cái luật âm giai ôn hòa mà C-major đề cập trong phần tiếp theo. Trước luật âm giai ôn hòa (dùng để lên dây) có một số luật khác do chính Pitagore dựa trên các con số tính tóan về cao độ âm thanh của mình mà chế tạo ra và 1 số của các nhạc gia khác. Sau âm giai ôn hòa (thế kỷ 18) cũng có luật âm giai cân bằng (Equal Tempering thế kỷ 19) được áp dụng rộng rãi cho đến ngày nay.
    Nói rõ hơn là Bach viết tác phầm trên gồm 48 prelude và fugues hay 2 bài cho mỗi âm giai của 12 âm giai trưởng (major) và 12 âm giai thứ (minor) (2 x 12 trưởng + 2 x 12 thứ = 48). Tại sao lại là 12 các bác biết rồi nhé.Tác phẩm Clavecin bien tempéré (Well-tempered Klavier) có thể có nghĩa là Cây đàn Clavier được lên dây theo luật âm giai ôn hòa vì tên tiếng Anh của âm giai ôn hòa là (Well Tempering). Nghe như vậy cũng có nghĩa hơn bởi vì Bach viết tác phẩm này để bảo vệ quan điểm ủng hộ âm giai ôn hòa của mình.
     
  12. saulvn

    saulvn Đồ rê mi fa sol ...

    hay quá các bác ạ.Nhưng em thấy cũng có 1 số tài năng ngược ngạo VD như tay guitar nhạc rock n roll của Guns n Roes là Slash : ko có nổi tấm bằng đại học hay nhạc viện , có thể chơi guitar rock , cổ điển và cả flamenco nữaVD đây là obsession confessionhttp://home.gwu.edu/~kaplup/sounds/Slash.mp3
     
Thread Status:
Not open for further replies.

Share This Page